Chuyển đến nội dung chính

Nên kết thúc sứ mạng nhà thuốc bệnh viện

Thứ Ba, 27/04/2010, 03:02 (GMT+7)
Nên kết thúc sứ mạng nhà thuốc bệnh viện
Ngày xưa có ích
TT - Từ năm 1975 đến 1989 việc nhập, sản xuất, phân phối thuốc chỉ do Nhà nước thực hiện, số lượng nhập hạn chế, dựa chính vào thị trường các nước XHCN, sản xuất chỉ tập trung ở vài xí nghiệp trung ương hay địa phương, số lượng ít, đơn điệu.
Không có khám chữa bệnh tư, kinh phí bệnh viện (BV) công thiếu, chưa có chế độ thu viện phí bảo hiểm y tế (BHYT) để bổ sung thêm. Nhu cầu tăng, thiếu thuốc dẫn tới nhiều tiêu cực trong BV: thầy thuốc ra y lệnh, khoa dược không có cấp, người bệnh phải “chạy” lấy thuốc. Nhân viên y tế tại buồng bệnh trực tiếp bán thuốc riêng, giới thiệu đến nơi bán thuốc “chui”, tự đặt ra lệ là nếu không mua thuốc đó thì không cho dùng.
Người dân mua thuốc tại một nhà thuốc bệnh viện ở TP.HCM - Ảnh: T.T.D
Trong bối cảnh ấy, các BV lập ra nơi “nhượng lại thuốc”, rồi sau chuyển thành “quầy công đoàn”. Điều này tạo cho người bệnh có nơi mua tin cậy, kịp thời, giá không quá cao so với bên ngoài, góp phần xóa việc nhân viên y tế bán thuốc móc nối với nơi bán thuốc “chui”, lập lại trật tự, nâng cao y đức.
Do tiêu chí phục vụ đúng đắn, mang lại một số lợi ích, khá hợp lý nên dù chưa hợp pháp, các sở y tế vẫn cho hoạt động. Sau này, cùng với việc hình thành hệ thống nhà thuốc tư, các cơ sở này được hợp pháp hóa thành nhà thuốc BV. Đây là nơi kinh doanh, không còn giữ được các tiêu chí phục vụ như trước.
Không còn phù hợp
Từ năm 1989, việc nhập, sản xuất, phân phối thuốc có tư nhân tham gia. Thị trường thuốc mở rộng, phong phú với khoảng 12.000 biệt dược (2007), đáp ứng đủ nhu cầu. Thuốc mới, đặc biệt, nếu chưa nhập chính thức, BV vẫn có thể xin nhập chuyến. Tuyến dưới nếu có yêu cầu có điều kiện vẫn có thể đề nghị dùng một số thuốc thuộc tuyến trên.
Điều 49 khoản 1 Luật dược quy định: “Cơ sở khám chữa bệnh có trách nhiệm bảo đảm cung ứng đủ thuốc có chất lượng trong danh mục phục vụ nhu cầu cấp cứu, khám chữa bệnh tại cơ sở…”. Chỉ thị 05/2004/CT-BYT quy định: “Giám đốc BV... tổ chức đấu thầu mua thuốc chữa bệnh theo quy định của pháp luật...”.
Có thuốc, có các văn bản pháp luật điều chỉnh, BV có trách nhiệm và đủ khả năng sắm đủ thuốc, có chất lượng, giá cả phù hợp cho mọi đối tượng nội trú và cấp ngoại trú BHYT. Chỉ còn một bộ phận nhỏ chưa có thẻ BHYT phải mua thuốc ngoại trú…
Đối tượng không có thẻ BHYT phải mua thuốc ngoại trú không lớn, bệnh thường không nặng, nếu kê đơn đúng thì đơn không thể gồm quá nhiều loại, càng không thể có các loại khó kiếm, đắt tiền. Ngay nơi BV đóng, thậm chí chỉ cách BV vài bước chân, đã có hệ thống bán lẻ rộng khắp. Mạng lưới đó đủ sức cung cấp cho các đối tượng trên. Nên để cho người dân đến các nơi này lựa chọn thoải mái, không nhất thiết mua tại nhà thuốc BV với bao nhiêu vị nể, ràng buộc.
Không nên duy trì
Cùng với sự phát triển của xã hội, y học, trên thế giới từ lâu đã tách việc khám chữa bệnh và bán thuốc thành hai nơi riêng biệt nhằm chống chủ quan gây nhầm lẫn, tránh nhiều điều không hay (như ép người bệnh dùng nhiều thuốc, lấy giá cao…). Bộ Y tế nước ta quy định: phòng khám tư không được bán thuốc, nhà thuốc phải bán thuốc theo đơn. Giám đốc bệnh viện có chức năng điều hành việc khám chữa bệnh.
Sau đó, Bộ Y tế giao thêm cho giám đốc chức năng chịu trách nhiệm nhà thuốc BV. Như thế là không tách biệt theo tập quán quốc tế. Nếu muốn nhà thuốc có doanh số cao, có lãi, cải thiện đời sống (thậm chí có vụ lợi) thì giám đốc và nhân viên dưới quyền sẽ phân tâm, không tập trung cho khám chữa bệnh, rất có thể làm chưa đúng các điều luật về cung ứng thuốc.
Do không tách bạch như vậy nên nhà thuốc BV có một số thiếu sót kinh niên như: tìm cách buộc người bệnh nội trú mua thêm thuốc, tìm cách tăng giá thuốc lên cao hơn giá thị trường: Bộ Y tế có quy định thặng số bán lẻ cho nhà thuốc BV (từ 5-20% so với giá mua, tùy loại) nhưng nhà thuốc có thể tự do liên kết tạo nguồn (không cần đấu thầu) nên có thể thông đồng với nơi bán sỉ, nhập vào với giá cao (để hưởng hoa hồng).
Nếu chỉ kiểm tra hóa đơn mua vào - bán ra riêng của nhà thuốc thì không phát hiện được vi phạm về quy định thặng số bán lẻ. Nhưng nếu đem so sánh mới thấy giá bán lẻ của nhà thuốc BV cao hơn giá thị trường. Có nhà thuốc chẳng cần làm “thủ thuật” này, cứ mặc nhiên bán giá cao, không cấp hóa đơn, người bệnh vẫn phải mua (vì áp lực của nhân viên y tế từ buồng bệnh).
Dù con số công bố thấp hơn của các báo chí, thanh tra Bộ Y tế cũng cho biết giá bán lẻ tại một số nhà thuốc BV cao hơn giá thị trường khoảng 20% (kiểm tra tháng 8-2008), 13% (kiểm tra tháng 4-2010). Ngoài ra, còn có các thủ thuật như kê đơn không đúng quy chế, kê đơn ngoài danh mục, kê đơn quá nhiều loại thuốc…
Nếu BV giao cho công ty dược làm nhà thuốc BV cũng vậy. Công ty dược phải đấu thầu hay thương lượng để có điểm bán. Giá này bao gồm cả nhà cửa, vị trí đắc địa nên rất cao. Để có đủ tiền chi, công ty dược khoán cho nhân viên bán thuốc doanh số cao. Nhân viên bán móc nối với nhân viên y tế…
BV dùng đất, nhà, phương tiện, lương nhân viên bằng ngân sách nhà nước để làm nhà thuốc BV, không tính hoàn trả cho ngân sách, thế nhưng giá thuốc lại đắt. Như vậy là không phân minh giữa công - tư - tập thể.
Đến thời điểm này, duy trì loại hình nhà thuốc BV trong khuôn viên BV là không phù hợp.
HÀ THỦY PHƯỚC
Chiếm 70% doanh số bán lẻ
Gần đây một số cán bộ quản lý ngành dược cho biết doanh số nhà thuốc chiếm khoảng 70% doanh số bán lẻ trên thị trường. Con số 70% không đáng mừng mà đáng lo. Thứ nhất, theo báo cáo tổng kết dược (2008) cả nước có gần 40.000 quầy bán lẻ, hơn 9.000 nhà thuốc tư và 437 nhà thuốc bệnh viện.
Như vậy, nhà thuốc bệnh viện chỉ chiếm 0,9% tổng số điểm bán lẻ chung, chiếm 4,59% trong tổng số nhà thuốc mà doanh số chiếm tới 70% thì chứng tỏ “sự tập trung quá đáng” có thể nói là “độc quyền”, không đúng hướng xã hội hóa việc cung ứng thuốc.
Thứ hai, theo số liệu mới nhất vào năm 2010 do Cục Quản lý dược cung cấp thì chỉ có 0,7% mặt hàng tăng giá (14/2.000 mặt hàng khảo sát) mức tăng dưới 5%, chỉ số giá của nhóm thuốc và dịch vụ y tế là 1,03% so với chỉ số hàng tiêu dùng chung là 4,12%, tiếp tục đứng thứ 9/11 mặt hàng tiêu dùng trọng yếu. Thế nhưng theo thanh tra Bộ Y tế, có tới 20-30% các loại thuốc tại nhà thuốc bệnh viện có giá cao hơn thị trường 13-20%. Như thế việc quản lý giá thuốc hóa ra chỉ là quản lý giá bán buôn (?), còn giá lẻ vẫn bị thả nổi, trong khi chính giá lẻ ảnh hưởng trực tiếp đến người bệnh!

Nguồn: http://tuoitre.vn/Ban-doc-viet/375577/Nen-ket-thuc-su-mang-nha-thuoc-benh-vien.html
Thứ Ba, 27/04/2010, 03:02 (GMT+7)
Nên kết thúc sứ mạng nhà thuốc bệnh viện
Ngày xưa có ích
TT - Từ năm 1975 đến 1989 việc nhập, sản xuất, phân phối thuốc chỉ do Nhà nước thực hiện, số lượng nhập hạn chế, dựa chính vào thị trường các nước XHCN, sản xuất chỉ tập trung ở vài xí nghiệp trung ương hay địa phương, số lượng ít, đơn điệu.
Không có khám chữa bệnh tư, kinh phí bệnh viện (BV) công thiếu, chưa có chế độ thu viện phí bảo hiểm y tế (BHYT) để bổ sung thêm. Nhu cầu tăng, thiếu thuốc dẫn tới nhiều tiêu cực trong BV: thầy thuốc ra y lệnh, khoa dược không có cấp, người bệnh phải “chạy” lấy thuốc. Nhân viên y tế tại buồng bệnh trực tiếp bán thuốc riêng, giới thiệu đến nơi bán thuốc “chui”, tự đặt ra lệ là nếu không mua thuốc đó thì không cho dùng.
Người dân mua thuốc tại một nhà thuốc bệnh viện ở TP.HCM - Ảnh: T.T.D
Trong bối cảnh ấy, các BV lập ra nơi “nhượng lại thuốc”, rồi sau chuyển thành “quầy công đoàn”. Điều này tạo cho người bệnh có nơi mua tin cậy, kịp thời, giá không quá cao so với bên ngoài, góp phần xóa việc nhân viên y tế bán thuốc móc nối với nơi bán thuốc “chui”, lập lại trật tự, nâng cao y đức.
Do tiêu chí phục vụ đúng đắn, mang lại một số lợi ích, khá hợp lý nên dù chưa hợp pháp, các sở y tế vẫn cho hoạt động. Sau này, cùng với việc hình thành hệ thống nhà thuốc tư, các cơ sở này được hợp pháp hóa thành nhà thuốc BV. Đây là nơi kinh doanh, không còn giữ được các tiêu chí phục vụ như trước.
Không còn phù hợp
Từ năm 1989, việc nhập, sản xuất, phân phối thuốc có tư nhân tham gia. Thị trường thuốc mở rộng, phong phú với khoảng 12.000 biệt dược (2007), đáp ứng đủ nhu cầu. Thuốc mới, đặc biệt, nếu chưa nhập chính thức, BV vẫn có thể xin nhập chuyến. Tuyến dưới nếu có yêu cầu có điều kiện vẫn có thể đề nghị dùng một số thuốc thuộc tuyến trên.
Điều 49 khoản 1 Luật dược quy định: “Cơ sở khám chữa bệnh có trách nhiệm bảo đảm cung ứng đủ thuốc có chất lượng trong danh mục phục vụ nhu cầu cấp cứu, khám chữa bệnh tại cơ sở…”. Chỉ thị 05/2004/CT-BYT quy định: “Giám đốc BV... tổ chức đấu thầu mua thuốc chữa bệnh theo quy định của pháp luật...”.
Có thuốc, có các văn bản pháp luật điều chỉnh, BV có trách nhiệm và đủ khả năng sắm đủ thuốc, có chất lượng, giá cả phù hợp cho mọi đối tượng nội trú và cấp ngoại trú BHYT. Chỉ còn một bộ phận nhỏ chưa có thẻ BHYT phải mua thuốc ngoại trú…
Đối tượng không có thẻ BHYT phải mua thuốc ngoại trú không lớn, bệnh thường không nặng, nếu kê đơn đúng thì đơn không thể gồm quá nhiều loại, càng không thể có các loại khó kiếm, đắt tiền. Ngay nơi BV đóng, thậm chí chỉ cách BV vài bước chân, đã có hệ thống bán lẻ rộng khắp. Mạng lưới đó đủ sức cung cấp cho các đối tượng trên. Nên để cho người dân đến các nơi này lựa chọn thoải mái, không nhất thiết mua tại nhà thuốc BV với bao nhiêu vị nể, ràng buộc.
Không nên duy trì
Cùng với sự phát triển của xã hội, y học, trên thế giới từ lâu đã tách việc khám chữa bệnh và bán thuốc thành hai nơi riêng biệt nhằm chống chủ quan gây nhầm lẫn, tránh nhiều điều không hay (như ép người bệnh dùng nhiều thuốc, lấy giá cao…). Bộ Y tế nước ta quy định: phòng khám tư không được bán thuốc, nhà thuốc phải bán thuốc theo đơn. Giám đốc bệnh viện có chức năng điều hành việc khám chữa bệnh.
Sau đó, Bộ Y tế giao thêm cho giám đốc chức năng chịu trách nhiệm nhà thuốc BV. Như thế là không tách biệt theo tập quán quốc tế. Nếu muốn nhà thuốc có doanh số cao, có lãi, cải thiện đời sống (thậm chí có vụ lợi) thì giám đốc và nhân viên dưới quyền sẽ phân tâm, không tập trung cho khám chữa bệnh, rất có thể làm chưa đúng các điều luật về cung ứng thuốc.
Do không tách bạch như vậy nên nhà thuốc BV có một số thiếu sót kinh niên như: tìm cách buộc người bệnh nội trú mua thêm thuốc, tìm cách tăng giá thuốc lên cao hơn giá thị trường: Bộ Y tế có quy định thặng số bán lẻ cho nhà thuốc BV (từ 5-20% so với giá mua, tùy loại) nhưng nhà thuốc có thể tự do liên kết tạo nguồn (không cần đấu thầu) nên có thể thông đồng với nơi bán sỉ, nhập vào với giá cao (để hưởng hoa hồng).
Nếu chỉ kiểm tra hóa đơn mua vào - bán ra riêng của nhà thuốc thì không phát hiện được vi phạm về quy định thặng số bán lẻ. Nhưng nếu đem so sánh mới thấy giá bán lẻ của nhà thuốc BV cao hơn giá thị trường. Có nhà thuốc chẳng cần làm “thủ thuật” này, cứ mặc nhiên bán giá cao, không cấp hóa đơn, người bệnh vẫn phải mua (vì áp lực của nhân viên y tế từ buồng bệnh).
Dù con số công bố thấp hơn của các báo chí, thanh tra Bộ Y tế cũng cho biết giá bán lẻ tại một số nhà thuốc BV cao hơn giá thị trường khoảng 20% (kiểm tra tháng 8-2008), 13% (kiểm tra tháng 4-2010). Ngoài ra, còn có các thủ thuật như kê đơn không đúng quy chế, kê đơn ngoài danh mục, kê đơn quá nhiều loại thuốc…
Nếu BV giao cho công ty dược làm nhà thuốc BV cũng vậy. Công ty dược phải đấu thầu hay thương lượng để có điểm bán. Giá này bao gồm cả nhà cửa, vị trí đắc địa nên rất cao. Để có đủ tiền chi, công ty dược khoán cho nhân viên bán thuốc doanh số cao. Nhân viên bán móc nối với nhân viên y tế…
BV dùng đất, nhà, phương tiện, lương nhân viên bằng ngân sách nhà nước để làm nhà thuốc BV, không tính hoàn trả cho ngân sách, thế nhưng giá thuốc lại đắt. Như vậy là không phân minh giữa công - tư - tập thể.
Đến thời điểm này, duy trì loại hình nhà thuốc BV trong khuôn viên BV là không phù hợp.
HÀ THỦY PHƯỚC
Chiếm 70% doanh số bán lẻ
Gần đây một số cán bộ quản lý ngành dược cho biết doanh số nhà thuốc chiếm khoảng 70% doanh số bán lẻ trên thị trường. Con số 70% không đáng mừng mà đáng lo. Thứ nhất, theo báo cáo tổng kết dược (2008) cả nước có gần 40.000 quầy bán lẻ, hơn 9.000 nhà thuốc tư và 437 nhà thuốc bệnh viện.
Như vậy, nhà thuốc bệnh viện chỉ chiếm 0,9% tổng số điểm bán lẻ chung, chiếm 4,59% trong tổng số nhà thuốc mà doanh số chiếm tới 70% thì chứng tỏ “sự tập trung quá đáng” có thể nói là “độc quyền”, không đúng hướng xã hội hóa việc cung ứng thuốc.
Thứ hai, theo số liệu mới nhất vào năm 2010 do Cục Quản lý dược cung cấp thì chỉ có 0,7% mặt hàng tăng giá (14/2.000 mặt hàng khảo sát) mức tăng dưới 5%, chỉ số giá của nhóm thuốc và dịch vụ y tế là 1,03% so với chỉ số hàng tiêu dùng chung là 4,12%, tiếp tục đứng thứ 9/11 mặt hàng tiêu dùng trọng yếu. Thế nhưng theo thanh tra Bộ Y tế, có tới 20-30% các loại thuốc tại nhà thuốc bệnh viện có giá cao hơn thị trường 13-20%. Như thế việc quản lý giá thuốc hóa ra chỉ là quản lý giá bán buôn (?), còn giá lẻ vẫn bị thả nổi, trong khi chính giá lẻ ảnh hưởng trực tiếp đến người bệnh!


Nguồn: http://tuoitre.vn/Ban-doc-viet/375577/Nen-ket-thuc-su-mang-nha-thuoc-benh-vien.html

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

CLINITEK STATUS - Ký hiệu báo lỗi và những lời khuyên hữu ích.

CLINITEK STATUS CÁC KÝ HIỆU BÁO LỖI VÀ NHỮNG LỜI KHUYÊN HỮU ÍCH Ký hiệu Thực trạng lỗi Lời khuyên E01 Nguồn pin yếu Thay pin mới (chú ý kiểm tra điện thế pin) E10 hoặc E48 Không hiển thị kết quả 1. Tắt máy bắng cách nhấn và giữ phím On/Off trong 2 giây. 2. Bật lại máy. 3. Thực hiện lại xét nghiệm. E11 Lỗi khay đặt que thử 1. Kiểm tra khay. Nhẹ nhàng kéo khay ra rồi đẩy khay vào lại. 2. Kiểm tra xem cáp nguồn tiếp xúc có tốt không. E23 Nguồn pin yếu Thay pin mới (chú ý kiểm tra điện thế pin) E24 Máy in hết giấy Thay cuộn giấy mới E25 E64 hoặc E65 Lỗi vệt trắng kiểm chuẩn trên khay   (Failure of automatic calibration) Làm sạch vệt trắng kiểm chuẩn E27 Lỗi cài đặt Tắt máy, rồi bật lại E28 Lỗi máy in Mở nắp đậy máy in và đặt lại lẫy giữ giấy đúng vị trí. E50 Lỗi que thử 1. Kiểm tra lại xem đã cài đặt đúng tên loại que thử đang sử dụng chưa...

Công thức Friedewald để tính lượng LDL cholesterol

Đây là công thức tính theo Friedewald (công thức nội suy): 1. LDL-c = Cholesterol toàn phần - HDL-c - Triglyceride/2,2 (tính theo mmol/L) 2. LDL-c = Cholesterol toàn phần - HDL-c - Triglyceride/5 (tính theo mg/dL) Lưu ý : Không áp dụng công thức này khi Triglyceride > 4,5 mmol/L ( > 400 mg/dL ) Một lưu ý quan trọng khác là do công thức này được đưa ra dựa trên phép thống kê sau việc thực hiện một số tương đối lớn các phép đo, sai số tính chung cho cả mẫu lớn là không đáng kể. Tuy vậy đối với một xét nghiệm đơn lẻ thì có thể xảy ra hiện tượng tích luỹ các sai số. Ví dụ, nếu như với mỗi xét nghiệm ta có thể chấp nhận sai số không quá 2%, thì khi cộng và trừ kết quả của 3 lần xét nghiệm, sai số có thể lên tới 6%. Vì thế khi có điều kiện về hoá chất, ta vẫn nên tiến hành xét nghiệm đo trực tiếp lượng LDL-c. Đây là công thức tính theo Friedewald (công thức nội suy): 1. LDL-c = Cholesterol toàn phần - HDL-c - Triglyceride/2,2 (tính theo mmol/L) ...

Sử dụng máy CLINITEK Status®+ với que thử không chính hãng

Công ty SIEMENS đã đưa vào một thay đổi nhằm ép người sử dụng máy thử nước tiểu đã mua của hãng này phải dùng que thử do chính SIEMENS cung cấp tại Viêt Nam, bằng cách bổ xung miếng dán kiểm tra (ID band). Miếng dán này sẽ kích hoạt chế độ kiểm tra tự động khi được dùng trên các đời máy:  + CLINITEK Status®+ version 2.0 hoặc cao hơn  + CLINITEK Status® đã được nâng cấp với phần mềm V2.0 hoặc cao hơn  + CLINITEK Status® Connect System Kể từ ngày 11 tháng 7 năm 2011, các dòng máy trên sẽ tự kích hoạt tính năng kiểm tra tự động và chỉ chấp nhận tiến hành xét nghiệm khi được sử dụng với que thử Multistix do hãng này cung cấp. Khách hàng ở Việt Nam nhiều người vẫn thường dùng các que thử do các hãng khác sản xuất như A10, ACON ...với giá bán rẻ hơn nhiều lần, mà vẫn cho ra kết quả tương đương. Tuy nhiên kể từ ngày 11/7/2011 nếu bạn đưa que thử không chính hãng vào, máy sẽ không thực hiện xét nghiệm, đẩy trả que ra ngoài và báo lỗi E50....